Nov 29, 2014

• Hoa Kỳ kết liễu sự mập mờ của Trung quốc về đường chin đoạn - Jeffrey A. Bader



Thượng nghị viện nên chuẩn thuận UNCLOS. Điều đó sẽ cho phép Hoa Kỳ có thêm tính chính danh khi tham gia một cách chủ động và hiệu quả vào các quyết định về tương lai Biển Đông. 

Tất cả những tuyên bố chủ quyền  từ “đường chín đoạn” của Trung quốc mà  không dựa trên các quyền chủ quyền trên đất  liền đều trái với luật pháp quốc tế. Cộng  đồng thế giới yều cầu Trung quốc phải giải thích, nếu không thì phải điều chỉnh những  tuyên bố chủ quyền dựa trên đường chín đoạn, để tuân thủ theo các nguyên tắc của  luật pháp quốc tế.”
 
 Lần đầu tiên Hoa Kỳ đã bày tỏ  một cách rõ ràng rằng đường chín đoạn do  Trung quốc và Đài loan vẽ ra trên Biển Đông là trái với luật pháp quốc tế. Trong  buổi tường trình trước Uỷ Ban Đối Ngoại của Quốc hội Hoa Kỳ, trợ lý ngoại trưởng  phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương Danny Russel đã nói: “Theo luật pháp  quốc tế, các đòi hỏi chủ quyền ở biển  Biển Đông phải dựa trên các yếu tố từ  đất liền.
 



 Tất cả những tuyên bố chủ quyền  từ “đường chín đoạn” của Trung quốc mà  không dựa trên các quyền chủ quyền trên đất  liền đều trái với luật pháp quốc tế. Cộng đồng thế giới yều cầu Trung quốc phải giải thích, nếu không thì phải điều chỉnh những  tuyên bố chủ quyền dựa trên đường chín  đoạn, để tuân thủ theo các nguyên tắc của  luật pháp quốc tế.”
 
 Với  diện tích rộng hơn 1,4 triệu dặm vuông, Biển  Đông có hàng trăm các đảo và quần đảo nhỏ,  các rặng san hô, mà phần lớn là không có  người ở hay không đủ điều kiện sinh sống.  Trung quốc thừa hưởng ý tưởng về đường  chín đoạn từ chính quyền quốc dân đảng của  Tưởng Giới Thạch, đó là một đường vẽ mập  mờ bao quanh tất cả các hòn đảo ở Biển  Đông, mà vùng nước trong đó Trung quốc đòi hỏi chủ quyền. Dựa theo Công Ước của Liên  Hợp Quốc về Luật Biển (U.N. Convention on the Law  of the Sea - UNCLOS), được thương thảo vào những  năm 70 và 80, các quốc gia ven biển được yêu  sách quyền độc quyền khai thác các nguồn tài  nguyên ngư nghiệp và khoáng sản trong “vùng  đặc quyền kinh tế” (Exclusive Economic Zones -  EEZ), đó là vùng nước rộng 200 hải lý tính  từ bờ biển hay xung quanh các hòn đảo có  người ở. Không có điều luật nào trong công  ước UNCLOS cho phép đòi hỏi quyền chủ quyền  mà không dựa vào nguyên tắc tính từ đất liền  này. Dựa trên nguyên tắc này của UNCLOS, Hoa Kỳ  xem các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông mà  không dựa trên các hòn đảo có người sinh sống  là hoàn toàn vô giá trị. Tuyên bố của trợ  lý ngoại trưởng Russel đã làm rõ luận điểm này của Hoa Kỳ. 
 
 Có thể thấy rõ sự quan tâm của Hoa Kỳ  dưới chính quyền của Tổng thống Obama đến  tình hình Biển Đông. Chỉ dấu đầu tiên của  sự quan tâm đó là tuyên bố được biết đến  rộng rãi của Ngoại trưởng Clinton tại một  hội nghị quốc tế tại Hà nội vào năm 2010,  trong đó bà nêu ra các nguyên tắc trong chính sách  của Hoa Kỳ ở Biển Đông: đó là tôn trọng tự  do hàng hải, giải quyết các bất đồng một  cách hoà bình, tự do thương mại, thương thuyết  để tiến tới thành lập một Bộ Qui Tắc Ứng  Xử (Code of Conduct – COC) nhằm giải quyết các  bất đồng, và vấn đề liên quan ở đây, là  các đòi hỏi chủ quyền vùng ở các vùng biển  phải dựa trên các chủ quyền hợp pháp trên  đất liền. Tuyên bố của bà Clinton đã đụng  chạm đến một chủ đề rất mập mờ mà  trước đó ít được nhắc đến, nó làm cho  Biển Đông trở thành một điểm nóng về ngoại  giao, một chủ đề tranh luận giữa các nhà phân  tích và các chuyên gia về an ninh quốc gia, và  trong một vài trường hợp, nó làm cơ sở cho các  tranh cãi của các bên đang tranh chấp chủ quyền  ở Biển Đông. Trong khi các nước Đông Nam Á như  Việt Nam. Philippines, Malaysia, và Brunei nhiệt liệt  ủng hộ, tuyên bố này làm Trung quốc rất tức  giận.
 
 Ngoại trưởng Clinton đã đưa ra tuyên bố  này để phản hồi cho những bất an ngày một gia  tăng giữa các nước láng giềng của Trung quốc  về việc nước này đang ngày càng mạnh bạo hơn  trong các đòi hỏi chủ quyền thông qua các  phương cách chính trị và quân sự, trong một môi  trường thiếu vắng các cơ chế ngoại giao để  làm giảm thiểu các căng thẳng. Trong khoảng  giữa năm 1994 và 1995, đã có một giai đoạn căng  thẳng tương tự khi Trung quốc tiến hành xây  dựng các công trình ở rặng san hô Mischief nằm  trong quần đảo Trường Sa mà Philippines tuyên bố  chủ quyền. Những đổ vỡ mang tính hệ quả  trong mối quan hệ giữa Trung quốc và các nước  Đông Nam Á đã làm cho các lãnh đạo Trung quốc  khi ấy, mà dẫn đầu là ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham, phải thương thảo với các nước ASIAN một bản Tuyên Bố Ứng Xử (Declaration of Conduct –  DOC), và một cam kết rằng các bên sẽ không có những hành động làm thay đổi nguyên trạng.
 Mặc dù thỉnh thoảng vẫn xảy ra những vụ tấn  công tàu cá do một trong các bên, hoặc một trong
 những quốc gia liên quan, mà chủ yếu là Việt  Nam, cho phép các công ty thăm dò dầu khí trong
 vùng tranh chấp, những biến cố này đã không  châm ngòi cho các cảnh báo chiến  tranh. 
 
 Tuy nhiên, trong nhiều năm gần đây, đã có  những lo ngại gia tăng trong vùng và ngay tại Hoa  Kỳ là Trung quốc đã không còn thích thú với  các giải pháp ngoại giao nữa, mà nay đang quay  sang sử dụng các phương cách quân sự và luật  pháp để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền ở  Biển Đông. Các tuyên bố nhắm vào giới ngoại  giao Hoa Kỳ là Trung quốc xem Biển Đông như một  “quyền lợi cốt lõi” mà liên quan nó Trung  quốc sẽ không chấp nhận sự can thiệp làm tăng  căng thẳng từ bên ngoài. Trong năm 2012, Trung   quốc đã xua đuổi ngư dân Philippines ra khỏi ngư  trường truyền thống của họ nằm xung quanh bãi  cạn Scarborough, nằm cách các đảo lớn của  Philippenes ít hơn 125 dặm, rồi từ đó cho cảnh sát biển liên tục kiểm soát. Cũng trong năm 2012,  Trung quốc thiết lập một đơn vị hành chánh và  quân sự bao gồm nhiều phần của quần đảo  Hoàng sa. Ngay khi vừa thiết lập vùng nhận dạng  phòng không ở biển Hoa Đông vào cuối năm 2013,  người phát ngôn bộ ngoại giao Trung quốc tuyên  bố ý định thành lập một vùng nhận dạng  phòng không tương tự ở Biển Đông, chắc chắn  sẽ chồng lấn với ít nhất vài khu vực đã  được thiết lập bởi các nước  khác.
 
 Biển Đông là một vấn đề phức tạp  đối với Hoa kỳ. Chúng ta không có đòi hỏi nào  trong vùng đó. Chúng ta đã không, và sẽ không  nên ngả theo phe nào trong các tuyên bố chủ  quyền. Cho dù bất kỳ nước nào thiết lập  được khả năng phát huy sức mạnh từ các đảo  ở Biển Đông cũng sẽ khó lòng mà đe doạ  được tàu bè và quân đội Hoa kỳ hoạt động  trong vùng. Mặc dù có những đánh giá về tiềm  năng dầu hoả và khí đốt, khả năng khai thác  thương mại là không thể trong tương lai gần. 
 
 Tuy  nhiên,  Hoa kỳ có các mối quan tâm trọng yếu ở biển  Biển Đông. Đó là: 
 
 • Để  bảo đảm tự do hàng hải, không phải vì quyền  lợi của bất cứ nước cụ thể nào, mà đó là  một quyền quốc tế quan trọng trong một khu vực  mà 50% các tàu chở dầu phải đi qua, một hải  lộ lớn của kinh tế thế giới, và là nơi mà các tàu hải quân Hoa kỳ được gửi đến và  hoạt động thường xuyên theo luật pháp quốc  tế.  
 
 • Để  ngăn chặn việc sử dụng sức mạnh hay áp bức  để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ hay hang hải.  
 
 • Để  bảo vệ cho việc tuân thủ các nguyên tắc và  luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các  vấn đề như vậy.
 
 • Để  bảo đảm tất cả các quốc gia, bao gồm Hoa Kỳ,  được quyền khai thác các nguồn lợi ngư nghiệp và khoáng sản bên ngoài các vùng đặc quyền kinh tế hợp pháp. 
 
 • Để  ngăn chặn một đồng minh của Hoa Kỳ là  Phillippenes khỏi bị bắt nạt hay bị tấn công  bằng sức mạnh.
 
 • Để đảm bảo rằng quyền lợi của tất cả các  quốc gia, chứ không phải chỉ có nước lớn,  phải được tôn trọng.
 
 Có những áp lực giữa các yếu tố khác  nhau trong quyền lợi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ không  muốn thấy Trung quốc đạt được quyền kiểm  soát trong khu vực thông qua việc áp bức. Nhưng  cùng lúc, Hoa Kỳ không muốn Biển Đông trở  thành nơi đối đầu hay xung đột giữa Mỹ và  Trung quốc. Sự thách thức các đòi hỏi của  Trung quốc, nếu không tuân theo các thông lệ  quốc tế và phù hợp với các nguyên tắc của Hoa Kỳ, có thể kích thích chủ nghĩa dân tộc  Trung hoa và sự hoài nghi nhắm vào chủ đích của  Hoa Kỳ, và thậm chí kích thích các hành xử hung  bạo hơn của Trung quốc trong vùng nhắm vào các  bên tranh chấp khác nếu như Hoa Kỳ không có  những đáp trả hiệu quả. Mặt khác, một Hoa  kỳ thụ động sẽ làm lu mờ các quan tâm kể  trên, và sẽ làm cho các bên tranh chấp khác tin  rằng Hoa Kỳ bỏ rơi họ và cả những nguyên  tắc của mình, qua đó có thể làm cho chính sách  “xoay trục” của chính quyền Obama về Châu Á   trở thành trò hề, làm mất đi sự đón nhận  của khu vực đối với sự hiện diện và ảnh  hưởng của Hoa Kỳ.
 
 Qua việc công khai không chấp nhận đường  chín đoạn, trợ lý ngoại trưởng Russel và chính  quyền Obama đã vạch ra một sự giới hạn đúng  chỗ. Họ đã làm rõ là những phản đối của  chúng ta dựa trên nguyên tắc, dựa trên luật  pháp quốc tế, chứ không phải chỉ để nhắm  vào Trung quốc. Nếu cách tiếp cận của chúng ta  với vấn đề Biển Đông vẫn tiếp tục dựa  trên nền tảng của nguyên tắc và luật pháp quốc tế, Hoa Kỳ có thể đạt được những  mục tiêu đề ra, bảo vệ quyền lợi của các  bên tranh chấp mà không phải đối đầu với  Trung quốc trong vấn đề chủ quyền.
 
 Những việc gì khác mà Hoa Kỳ nên làm? Rất  nhiều thứ:

 • Hoa Kỳ nên đảm bảo rằng cách tiếp cận  của mình không bị xem là đơn phương. Đôi khi  các quốc gia khác ngoài mặt thì im lặng nhưng  bên trong vẫn ủng hộ. Chính quyền Hoa Kỳ nên  làm rõ với các bên tranh chấp khác, cũng như các  nước ASIAN khác như Singapore và Thái Lan, là chúng  ta kỳ vọng ở họ một sự phản đối công khai  đối với đường chín đoạn theo luật pháp  quốc tế. 
  
 • Hoa Kỳ nên thảo luận với Đài Loan  để làm rõ quan đểm của họ về đường chín  đoạn, làm rõ rằng những đòi hỏi của họ  phải dựa theo UNCLOS.

   Hoa Kỳ nên tiếp tục nỗ lực cho việc đàm  phán để tạo ra một Bộ Qui Tắc Ứng Xử (COC)  giữa Trung quốc và các nước ASIAN, như chúng ta  đã và đang làm từ lúc ngoại trưởng Clinton  thông báo về mục tiêu đó ở Hà nội. Thực tế  là, quyết định gần đây của Trung quốc và các  nước ASIAN trong việc bắt đầu các cuộc đối  thoại về COC là một thắng lợi từ tuyên bố  của ngoại trưởng Clinton.
 
 • Hoa Kỳ nên khuyến cáo Trung quốc  không thành lập bất cứ một vùng nhận dạng  phòng không mới nào trên Biển Đông. Mặc dù  việc làm rõ quan điểm về vấn đề này một  cách công khai là cần thiết, các cuộc đối  thoại ngoại giao kín dường như có tác dụng  ảnh hưởng hơn với Bắc Kinh.
 
 • Hoa Kỳ nên thảo luận với tất cả  các bên tranh chấp về những đồng thuận khả  thi trong việc khai thác khoáng sản và ngư nghiệp  mà không liên quan đến chủ quyền, bao gồm việc   hợp tác đầu tư giữa các công ty. 
 
 • Thượng nghị viện nên chuẩn thuận  UNCLOS. Điều đó sẽ cho phép Hoa Kỳ có thêm tính  chính danh khi tham gia một cách chủ động và  hiệu quả vào các quyết định về tương lai  Biển Đông. Tất cả các ngoại trưởng tiền  nhiệm của Hoa Kỳ đều ủng hộ một quyết  định như vậy. Hải quân Hoa Kỳ cũng như các  nguyên soái hải quân và tư lệnh Thái Bình  Dương, cũng như phần lớn các công ty Hoa Kỳ có  liên quan, cũng đều ủng hộ. Thay vì nói, chúng  ta hãy bắt tay vào làm thôi.

 Jeffrey  A. Bader
 Liêm Nguyên dịch
Hồ Công Tâm chuyển

No comments:

Post a Comment