Sep 30, 2012

• Thằng "CON C....." VIỆT CỘNG Đang Run Sợ


Nhà nước Cộng Sản VN đang run sợ
by Mõ SG (Danlambao) - 
Image

Image










Nhân dân chúng tôi biết các ông đang bối rối, hoảng hốt, sợ hãi vì đang ở khúc cuối của con đường cùng. Sự sợ hãi ám ảnh các ông ngay trong giấc ngủ và từng giờ trong cuộc sống của một giai cấp lãnh đạo chuyên gieo đau thương sóng gió cho nhân dân và đất nước bằng sự cai trị độc tài độc đảng và tàn ác. 

Gia đình các ông hoang mang lo lắng vì không biết ngày mai sẽ như thế nào. Các ông đang sống trên một núi tiền của nhưng có lẽ giờ đây các ông đã cảm nghiệm được chân lý "không phải có tiền là có thể mua tiên". Các ông đang nắm trong tay nhiều quyền lực và nhiều sức mạnh, nhiều súng đạn nhưng tất cả những thứ đó không đem lẽ phải về phía các ông. 

Các ông sắp thua cuộc, bại trận trước sự phẫn uất căm hờn của nhân dân. 

:mrgreen: Các ông có rất nhiều cái để sợ:

Các ông đâu có tiếc nuối lo lắng gì cho cái chủ nghĩa cộng sản, phương tiện đã dẫn đưa các ông lên vị trí cầm quyền ngày hôm nay. Các ông ghét chủ thuyết này còn hơn chúng tôi vì các ông là những người phải nghe, phải đọc, phải học, phải làm theo và các ông biết rõ nó là gì và như thế nào. Nhưng nếu thả trôi nó theo dòng cuốn của lịch sử nhân loại các ông sẽ mất điểm tựa để sống, để hưởng thụ. 

Nếu tính từ mốc điểm 1975, đã gần ba mươi năm các ông làm giàu nhờ nó, đến giờ phút này các ông đã là những triệu phú đô-la. Sự níu kéo và cố gắng duy trì chủ thuyết này chỉ vì các ông sợ sẽ mất trắng những gì đã thu tém được của đất nước bằng nhiều kiểu cách bất nhân thất đức. Các ông đang bối rối chưa tìm ra một cách hạ cánh an toàn cho mình và gia đình để sống hưởng thụ số tiền của đã cất dấu. Các ông cố gắng bảo vệ cho sự tồn vong của Đảng để lần lừa mong chờ thời gian và các thế hệ đồng thời qua đi, lớp người kế tiếp sẽ không biết nhiều về các ông để đánh gục và tịch thu tài sản sung vào ngân quỹ quốc gia. 

Hơn nữa ngoài sự oán thù của nhân dân, trong nội bộ cũng có rất nhiều đồng chí các ông đang mài dao lau súng chờ thời cơ để treo cổ các ông. Các ông biết rõ hơn chúng tôi về cách rửa tiền và dấu tiền ở các ngân hàng nước ngoài, nhưng các ông cũng biết không có cách nào là an toàn vì một khi các ông mất quyền cai trị, nhân dân có quyền đòi hỏi để đưa số kim ngân đó về cho đất nước. Các ông đang sợ hãi vì có quá nhiều tiền tẩm bằng máu, bằng sinh mạng và nước mắt của nhân dân. Các ông biết nhân dân đã ghi sổ tất cả những gì các ông làm từ thời ông Hồ Chí Minh đến triều đại Mafia đỏ sau cùng, và các ông biết rõ khi giờ G đến, nhân dân sẽ tính sổ với các ông. 

Vì thế các ông đã khủng bố đàn áp dã man những người đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ. Các ông lập mưu bóp chết những tiếng nói kiên cường bảo vệ lãnh hải và lãnh thổ. Các ông trù dập, đánh đập, bỏ tù, đày đọa những người can đảm đứng lên đòi công lý, đòi quyền làm con người vì tất cả những hành động đấu tranh đó đe dọa sự tồn vong của đảng và sự sống còn của các ông và gia đình các ông cùng với số tài sản khổng lồ. Các ông đã làm thui chột nhiều thế hệ Việt Nam, cản trở sự vươn lên của dân tộc. 

Những hành động tàn độc, đê tiện, dơ bẩn của các ông là những nhát cuốc tự đào huyệt mộ cho đảng và cho mình. Nhân dân thách thức các ông hãy đàn áp hơn nữa, hãy bày tỏ sự nhơ nhớp hèn hạ của một con thú bị dồn vào đường cùng hơn nữa đi. Nhân dân chúng tôi không sợ. Người sợ chính là các ông. Đảng các ông biết rõ nhân dân không tín nhiệm và đồng ý với đường lối cai trị của họ, chính quyền các ông không do dân cử, với một tình cảnh như thế các ông biết chắc là nay mai đảng sẽ bị loại ra khỏi chính quyền và các ông sẽ không còn đất sống, hơn nữa chính quyền cộng sản các ông đang mất phương hướng, không còn lý tưởng và chính nghĩa để tiếp tục hiện diện và cai trị. Đất nước Việt Nam không phải của đảng cộng sản nhưng là của nhân dân, sự sụp đổ của đảng chỉ còn là thời gian vì đã đến lúc nhân dân thực thi quyền làm chủ đất nước của mình. 

:mrgreen: Cái sợ thứ hai đang gậm nhắm tàn phá tâm hồn các ông còn kinh khủng hơn bất cứ cái sợ nào. Để duy trì quyền lực và làm giàu các ông đã dùng những mưu ma tàn ác, độc hiểm để có tiền và có quyền. Các ông đã huy động lực lượng công an để bảo vệ và đem thắng lợi về cho mình bằng mọi phương thức. Những chiếc ghế các ông đang ngồi được kết thành bởi hàng triệu sinh linh chết oan ức trong tù, trong trại cải tạo, trong đời thường bị cô lập, bao vây, trong oán hờn vì bị cướp đất lấy nhà. Các ông biết rõ oán thù do các ông gây ra bao la hơn biển cả. Không một gia đình nào không bị các ông ức hiếp. Không một cá nhân nào không có vấn đề với đảng cộng sản và công an côn đồ. Không tôn giáo nào được bình yên tự do hành đạo. Không sắc tộc nào được tự do sống trong bình an. 

Sự sợ hãi đã biến tất cả những gì các ông thấy, nghe đều là của địch, đều là những nguy hiểm cho các ông. Bằng mọi phương cách đê tiện, nham hiểm, ác độc các ông đã tạo nên hàng triệu gia đình mất cha, hàng triệu người vợ mất chồng. Vì quá sợ hãi các ông đã bối rối sai lầm trong mọi hành động và kết quả là tất cả các ông, từ ông nhỏ đến ông to đều được nhân dân ghi tên nhớ mặt chờ ngày đưa ra xét xử. Nhân dân ở đây nhiều lúc có nghĩa hẹp hơn, đó là những người trong khu phố của các ông, những nạn nhân trong khu vực các ông cầm quyền, những người trong làng, trong xã các ông. 

Các ông biết rõ khi giờ G đến, cho dù chính quyền tiếp nối có nhân đạo cách nào đi nữa cũng không thể nhanh tay can thiệp được những cuộc trả thù đẫm máu của những người này, không chỉ riêng cá nhân mà là cả gia đình các ông vì sự oán hờn cao ngất tựa trời. Các ông đang ngày đêm lo sợ giờ G đó xảy đến. Nhiều người trong các ông đã tẩu tán tài sản, tậu nhà mua biệt thự ở nước ngoài để dọn đường chạy trốn, nhưng các ông cũng biết rất rõ và rất rõ là cho dù các ông bay lên trời hay chui vào lòng đất những tội ác các ông đã làm sẽ luôn bám theo các ông cùng những quả báo của nó. Sự sợ hãi đã đưa các ông từ sai lầm này đến sai lầm khác. 

Các ông đã kết án những người anh hùng dân tộc dám công khai bày tỏ sự nguy hiểm của Trung cộng khi chiếm đất lấn đảo của Việt Nam, những người dám công khai chỉ trích những sai trái bất công của chính quyền, dám công khai đòi tự do ngôn luận, tự do tôn giáo. Những bản án vô nhân đạo này sẽ quay ngược về phía các ông và nó sẽ nhân lên gấp trăm gấp ngàn lần. Bọn công an côn đồ các ông đang sử dụng sẽ là những người đầu tiên quay lại đâm vào tim vào gia đình các ông, chơi với dao sẽ chết vì dao. Các ông cũng biết rõ lực lượng quân đội sẽ không đứng về phía các ông trong những giờ phút cuối cùng vì họ là con em của nhân dân, mãn thời hạn bị bắt buộc thi hành nghĩa vụ quân sự họ lại là những người dân như mọi người khác. Các ông thường có những quyết định điên cuồng, có thể các ông sẽ ra lệnh bế quan tỏa cảng, nội bất xuất ngoại bất nhập, làm cỏ tất cả những phần tử chống đối để không xảy ra như trường hợp các nước Li-Bi, Ai cập. Các phương tiện truyền thông sẽ bị cắt đứt, internet bị gián đoạn, các thông tin bị cô lập ở từng địa phương để không ai biết và không ai liên lạc được với nhau. Công an được huy động đến mức tối đa truy tìm và thủ tiêu các phần tử đối lập. Sau đó một vài năm, khi đất nước đã sạch bóng “quân thù”, nhà nước các ông lại “đổi mới” một lần nữa để ra mắt với cộng đồng thế giới. 

Thưa các ông, khi cơn lũ của sự phẫn uất, của hờn căm tràn xuống thì tất cả các ông sẽ bị cuốn trôi. Không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của toàn dân. Giải pháp duy nhất để giải quyết vấn đề khi còn kịp để tránh đổ máu là trả tự do cho những tù nhân lương tâm vô điều kiện và ngay lập tức. Trao trả đất nước lại cho nhân dân. Có như thế các ông mới hy vọng còn một chỗ dung thân. 

Chần chừ, níu kéo, ngoan cố đến giờ G, 
máu các ông và gia đình vợ con là những người vô tội bị vạ lây 
sẽ nhuộm đỏ mọi ngỏ ngách từ thành phố đến thôn làng.


Dân tộc đang căm hờn. 
Nhân dân đang phẫn uất. 




Làn Sóng Cộng Sản Tỵ Nạn Cộng Sản!
by Tác giả :Vi Anh - September 27, 2012 by HNSG
Image

Image



Mới đọc qua tựa bài ắt có người thắc mắc, hỏi “ủa sao kỳ lạ vậy, Cộng sản mà lại đi tỵ nạn CS, bỏ nước ra đi hàng loạt thành phong trào”

Nhưng bình tâm tìm hiểu thí thấy chuyện tưởng như đùa mà lại có thật. Những con số vô hồn, những sự kiện lạnh lùng, những thông tin, nghị luận độc lập nói lên sự thật. Rất có, có rất nhiều, rất phổ biến thành phong trào người ở xứ CS bỏ nước ra đi tỵ nạn CS. Đang xảy ra thành phong trào, thành thời trang ở hai chế độ CS còn sót lại lớn nhứt ở Á châu: Trung Cộng và Việt Cộng.

Dưới nhiều hình thức nhưng tựu trung là hoặc là chánh thức cho người nhà dùng tiền xin nhập cư vớivisa đầu tư, visa du học rồi lấy vợ hay chồng ở lại, hoặc là chuyển tìền lậu ra ngoại quốc đề tẩu tán tài sản – theo phong tục của rất Tàu “nhứt con nhì của”. Nhưng chỉ một mục tiêu chuẩn bị nơi “hạ cánh an toàn”, nói theo kiểu Thủ Tướng VNCS nhận định về làn sóng này.

Hơn ai hết những người CS là những người biết rõ không thể cứu sống một xác chết là chủ nghĩa CS sau khi các nước CS Đông Âu và Liên xô đột quị, chết bất đắc kỳ tử. Việc lợi dụng cái xác ướp đó, “lộng kiếng” hình để lấy tư tưởng Hồ chí Minh, Mao trạch Đông để tiếp tục độc chiếm quyền hành, làm giàu cho cá nhân, gia đình và phe đảng bằng cách chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng “xã hội chủ nghĩa” nhưng giữ cái đuôi lòng thòng xã hội chủ nghĩa của con nòng nọc khiến nó không chuyển hóa thành con cóc, con nhái để có thế thấy trời cao đất rộng được.

Hơn ai hết những người CS biết xã hội CS là một xã hội bế tắc, tranh giành quyền lợi, chức vụ thường theo qui luật ai thắng ai, một mất một còn, “thịt nhau” bằng nhiều thủ đoạn chớ không tương nhượng.

Còn những người ăn theo CS thừa biết làm ăn với CS, CS “vỗ béo” đến mức độ nào đó để ăn chia, khi biết “mánh” rồi hay khi “bể mánh”, chuyện đổ bể, là CS “thịt” liền để bịt đầu mối và trừ hậu hoạn. Vụ Bí Thư Tỉnh Ủy Trùng Khánh ở TC bị lột tất cả chức vụ, vợ bị tù hình sự, tay em giám đốc công an và nội chính hét ra lửa bị 15 năm tù hình sự nói lên sư thối nát và hạ nhau trong nội bộ đảng nhà nước của TC.

Vụ Bầu Kiên ở VNCS rất thân thế với Thủ Tướng Dũng bị phe Tổng Bí Thư Trọng và Chủ Tịch Nước Sang “chơi sát ván”, bắt bỏ tù. Những phụ tá của ngân hàng tư lớn hàng thứ tư ở VN của y cũng bị bắt, cho thấy kinh tế và tài chánh trong chế độ CS rất bấp bênh, lúc nào cũng có thể bị phe đảng gây bất ổn.

Nên cán bộ, đảng viên CS và những người ăn theo có lý do để tỵ nạn CS. Tài sản, gia đình, con cháu mà để trong chế độ CS là rất bất ổn, phiêu lưu, như giao trứng cho ác vậy. Nên họ tìm đường thoát thân, tẩu tán tài sản là chuyện cố nhiên.

Những con số sau đây do báo chí, khảo cứu ngoại quốc, độc lập về làn sóng chào TC bằng chân, chuyển con, chuyển của sang các nước tự do, dân chủ, số lượng quá nhiều, qua nhiều hình thức.

Một chuyên gia về TC sự vụ, Jonathan Manthorpe cho biết 90% trung ương ủy viên Đảng CS ở TC đã âm thầm đưa một phần gia đình và tẩu tán đa số tài sản ra ngoại quốc.

Còn giới ăn theo TC, thì 60% nộp hồ sơ xin di dân, theo thủ tục nhập cư đầu tư, đem vào nửa triệu Mỹ Kim và lập cơ sở thu nhận khoảng 10 nhân công, một thủ tục các nước tiền tiến ở Tây Âu, Bắc Mỹ thường qui định.

Du sinh từ TC chiếm tỷ lệ cao nhứt ở Mỹ, Canada, Pháp, Đức và Úc. Tập Cận Bình, Phó Chủ tịch TC, Tổng bí thư đảng là Giang Trạch Dân và Triệu Tử Dương, Bạc Hy Lai bí thư Trùng Khánh đều có con cháu học ở Mỹ.

Một thông tín viên của BBC, John Sudworth mới đây ngày 22/8/12 từ Thượng Hải tường thuật “có một thứ hàng xuất khẩu từ Trung Quốc mà dường như hiện nay không ai ngăn cản nổi – đó là các triệu phú”. “Hầu hết họ nghĩ rằng tôi có quá nhiều tiền ở đây. Rồi sẽ tới ngày chính phủ thay đổi chính sách và lấy lại hết”.


:arrow: Hồ sơ di trú công cộng của Mỹ cho biết số visa đầu tư để định cư EB-5 mà Mỹ cấp cho dân TC tăng như hoả tiễn: năm 2006, chỉ có 63 visa; năm 2011 lên 2.408 visa; và trong năm 2012, nửa năm đã 3.700 visa.
:arrow: Ở Úc cũng tăng nhanh, năm 2011 di dân Trung Quốc vào Úc nhiều hơn dân Anh, đảo ngược truyền thống người Anh là sắc dân nhập cư Úc nhiều nhứt.
:arrow: Ở Pháp cũng tăng, di dân dầu tư của TQ mua gần hết vườn nho làm rượu chát ở Bordeaux, Bourgogne.

Còn tại VNCS, “thầy sao trò vậy”. Trong nhiệm kỳ 4 năm đại sứ của Mỹ Michael Michalak, Ông tự hào về tỷ lệ sinh viên VN du học Mỹ tăng lên 400%. Niên học 2011-12, báo trong nước VNExpress cho biết “số lượng sinh viên Việt Nam học tập tại các trường đại học và cao đẳng Mỹ lên tới gần 15.000 người trong năm học hiện tại, đưa Việt Nam lên thứ 8 trong danh sách các nước có nhiều sinh viên học tại Mỹ”. Đặc biệt VNCS chơi rất trội cho học sinh du học và cho đem “bảo mẩu” theo. Số học sinh du học Mỹ cho mẹ hay người bảo trợ theo, học trung tiểu học hoàn toàn miển phí không ít.

Chắc chắn số sinh viên học sinh du học Mỹ này không phải là dân con nhà nghèo, học giỏi được học bổng du học. Đại đa số là du học tự túc bằng tiền của gia đình. Học phí Mỹ mắc nhứt thế giới. Chỉ có con cháu của cán bộ đảng viên CS có quyền và tiền và của những đại gia ăn theo CS giàu sụ mới du học Mỹ tự túc nổi.

Một số lớn ở lại quản tri, giám sát tài sản của cha mẹ giao cho người thân sở tại làm ăn. Một số “mua chồng, mua vợ” để thành công dân Mỹ. Họ có tiền nên có cả chục cách để ở lại Mỹ. Nhưng chỉ một mục tiêu là tạo nhịp cầu cho cha mẹ hạ cánh sau khi thu vén cuối đời.

:arrow: Con gái của TT Dũng Nguyễn Thanh Phượng đã từ chức các công ty ngon ăn, dọn đường di tản chiến lược. Nhưng liệu người chồng Mỹ gốc Việt có chịu trả tài sản đứng tên thay cho gia đình cha vợ không.

Nhưng đâu phải một mình TT Dũng tẩu tán tài sản, gởi giấu ở ngoại quốc. Tin bán chánh thức khó có thể phối kiểm (vì là đồ lậu), số tài sản, đúng ra là ngoại tệ mạnh, các lãnh tụ Đảng Nhà Nước VC gởi giấu ở ngoại quốc nhiều lắm.

Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ sau 3 tuần lễ thăm VN để tính chuyện làm ăn buôn bán, cho biết các tai to mặt bự của Đảng Nhà Nước VNCS, vợ con, bà con tứ thân phụ mẫu đều có công ty. Và Đảng Nhà Nước CSVN cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên nửa triệu đô la. Một hình thức rửa tiền một cách hợp pháp. VNCS có 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la, và khoảng 2000 đảng viên có tài sản từ 50 đến 100 triệu đô la. Hầu hết có tẩu tán ra ngoại quốc cho thân nhân của đảng viên cao cấp ở nước ngoài làm sở hữu chủ. Ông Shapiro cho một thí dụ điển hình vợ bé của tổng cục trưởng phản gián làm ăn rất lớn ở Âu châu, em ruột của trung tướng VC, tổng cục phó tổng cục phản gián đang kinh doanh rất lớn ở Nam Cali, vợ con của Giám đốc Kinh tế và thân nhân của Đỗ Mười thủ đắc những tài sản nhiều triệu đô la ở Vancouver, Canada và cả ở New York, Houston.


Câu lạc bộ dân chủ cho biết “Một nguồn tin tuyệt mật của một nhân vật cao cấp của Bộ Công an cho biết từ tháng 2/2005 số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy sĩ. Cụ thể như:

:!: Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh hơn 2 tỉ USD cộng 7 tấn vàng; 
:!: Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười 2 tỉ USD;
:!: Đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm văn Trà 2 tỉ USD cộng 3 tấn vàng; 
:!: Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 500 triệu USD;
:!: Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương 2 tỉ USD;
:!: Đương kim Thủ tướng Phan văn Khải hơn 2 tỉ USD;
:!: Đương kim Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn tấn Dũng hơn 1 tỉ USD; 
:!: Đương kim Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 1,3 tỉ USD;
:!: Đương kim chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An hơn 1 tỉ USD;
:!: Cựu phó ủy ban thể dục thể thao Quốc gia Lương quốc Đống 500 triệu USD; 
:!: Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn mạnh Cầm hơn 1 tỉ USD; 
:!: Cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại Mai văn Dậu hơn 1 tỉ USD.”

Bản tin gọi là tuyệt mật vừa rồi của Câu lạc bộ dân chủ chưa thấy ai kiểm chứng được, nhưng nếu đúng tới 1/5 các con số đó cũng là kinh khủng rồi.

Chỉ ở Thụy sĩ thôi mà hàng mấy chục tỷ rồi. Còn bao nhiêu ngân hàng các nước lớn ở Tây Âu, Bắc Mỹ nữa. Từ năm 2005 mà cả mấy chục tỷ ở Thụy sĩ rồi, cho đến bây giờ 2012 gần 7 năm sau, con số đô la gởi ngoại quốc của những người như TT Dũng nghe nói đã lên đến 19 tỷ rồi.

Cán bộ đảng viên lớn và các đại gia ăn theo của TC và VC làm đủ cách, đủ kiểu để tẩu tán hai của quí trong đời theo truyền thống Trung Hoa ”nhứt con, nhì của” ra các siêu cường để cất dấu hầu có nơi hạ cánh an toàn. 

Nhưng họ quên một điều, từ TT Marcos của Phi luật tân, đến Suharto rất thân với Mỹ nhưng sau khi bị nhân dân lật đổ, số tiền bất chánh, gởi lậu đó đâu có được hưởng. Tất cả bị chánh quyền mới kiện đòi các ngân hàng trả lại cho ngân sách quốc gia.


Sep 26, 2012

• Tội Ác Của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam







Tội Ác Của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 

  • 1949-1956 : Năm đợt Cài Cách Ruộng Đất : 500 ngàn nạn nhân ;
  • 1954 : Gần 1 Triệu người đã bỏ Tất Cả để vào Nam tìm Tự Do ;
  • 1958 : Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng gởi công hàm thừa nhận yêu sách của TC về Biển Đông và 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa ;
  • 1968 : Tấn công Tết Mậu Thân. Hơn 14000 nạn nhân dân sự, trong số hơn 2000 người bị chôn sống ;
  • 1974 : Với sự đồng loã của nhà cầm quyền Hà Nội, TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của VNCH ;
  • 1975 : - Cưỡng chiếm Miền Nam, 2 năm sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Binh Paris, - Trại Tù « Cải Tạo », nửa triệu tù nhân khổ sai, hàng chục ngàn thiệt mạng ;
  • 1975-1985 : Hơn 1 triệu 750 người trốn khỏi Việt Nam (3, 4 trăm ngàn tử nạn) ;
  • 1979 : Chiến tranh giữa Việt Nam và TC, hàng chục ngàn dân Việt mạng vong ;
  • 1999-2000 : Hai Hiệp Ước, ký lén lút, nhượng Đất Biển của Tổ Quốc cho TC (vùng biên giới và hầu như toàn bộ Biển Đông, với 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa) ; Đến ngày hôm nay, vẫn chưa có Hiệp Ước hoặc bản đồ nào được công bố ... 




Image

Image
Tóm lại, kể từ 1945, « chiến tranh giải phóng » của HCM và đảng CSVN đã sát hại hơn 3 triệu (*) người Việt Nam 
(*) Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 : Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes Fils ? 
Việt Nam, nguơi đã làm gì với đàn con ?).



Dẫn tới tình trạng hiện tại : 
- Mất hầu như toàn bộ Biển Đông, và một phần khu biên giới phía Bắc ;
- Đại đa số dân chúng sống nghèo khổ mặc dù đã 35 năm hoà bình thống nhứt ;
- Ngư phủ Việt Nam bị TC khủng bố trắng trợn, đàn áp thẳng tay, thậm chí sát hại trong khu vực đánh cá truyền thống tổ tiên, trước sự im lặng dửng dưng của nhà cầm quyền ;
- Đàn áp thô bạo người bất đồng chính kiến, tín đồ tôn giáo không « quốc doanh » ;
- Về tự do biểu lộ tư tưởng, năm 2009, « Phóng Viên Không Biên Giới » 
đã xếp Việt Nam vào hạng thứ 166 trong số 175 quốc gia trên thế giới ;
- Buôn bán trẻ em, buôn bán phụ nữ để làm nô lệ tình dục ;
- Xuất cảng lao động rẻ tiền (thực chất là nô lệ) khắp thế giới ;
- Cho TC (kẻ thù truyền kiếp) « thuê » nhiều vùng đất đai chiến lược của Tổ Quốc ; để khai thác bauxite (vô cùng ô nhiễm), với nhân công TC nhập cảnh tự do ... 

- Cán bộ đảng CSVN trở thành triệu triệu phú USD, với 1 số không nhỏ là tỷ phú ;
- Văn Hoá sa sút, Tàu hoá ; Xã Hội đồi truỵ, chạy theo vật chất bằng mọi giá ...
- Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo khổ nhất thế giới, vẫn van xin quốc tế trợ giúp ...

Image



Les Crimes De Ho Chi Minh & De Son Parti Communiste
1949-1956 : Cinq vagues de Réforme Agraire -- 500 000 victimes
1954 : Près d'un million de Nord Vietnamiens ont tout quitté pour La Liberté dans le Sud ;
1958 : Lettre Officielle de Pham Van Dông, sous la houlette de Hô Chi Minh, approuvant les revendications de la Chine sur la Mer de L'Est avec les Iles Paracel et Spratley ;
1968 : Offensive du Têt -- Plus de 14000 victimes civiles dont plus de 2000 enterrés vivants à Huê ;
1974 : avec la complicité du gouvernement de HaNoi, la Chine envahit l'archipel Paracel de la République du Sud Viet Nam ; 
1975 : - Invasion du Sud VN 2 ans après le Traité de Paix de Paris ; - Camps de concentration : 1/2 million de prisonniers, des dizaines de milliers de morts ...
1975-1985 : Plus de 1,7 million ont réussi à fuir le VN (3 ou 4 cent mille ont péri) ;
1979 : guerre entre 2 régimes communistes (Le VN et la Chine) - des dizaines de milliers de victimes ;
1999 et 2000 : traités, signés en secret, cédant du territoire national à la Chine, (des zones frontalières du Nord, la quasi-totalité de la Mer de l'Est avec les archipels Paracel, Spratley) ; A cette date, aucun traité n'est divulgué, aucune carte n'est publiée ... 
Pour résumer, depuis 1945, la « guerre de libération » de HCM et de son PCV a fait plus de 3 millions (*) de victimes parmi la population vietnamienne
(*) Pierre Darcourt, Edition Albatros Paris 1976 : VietNam Qu'As-Tu Fait De Tes Fils ? 
Pour arriver à la situation actuelle :
- Perte de la quasi-totalité de la Mer De L'Est et d'une partie de la zone frontalière ;
- La grande majorité de la population vit dans la pauvreté malgré 35 ans de paix absolue ;
- Des pêcheurs vietnamiens sont ouvertement terrorisés et même tués par l'armée chinoise, dans leurs zones de pêche ancestrales, sans aucune réaction de la part du VN ;
- Répression brutale des dissidents et des religieux n'appartenant pas aux organisations d'Etat (le VN est classé, en liberté d'expression, 166/175 par RSF en 2009) ;
- Traffic d'enfants, traffic de femmes pour l'esclavage sexuel ;
- Traffic de « main d'œuvre bon marché » (en réalité des esclaves) pour le monde entier ;
- « Location » des zones hautement stratégiques du Territoire National à la Chine (notre ennemi ancestral), qui exploite la bauxite (tragiquement polluante) avec sa propre main d'œuvre venue de Chine, librement ... 
- Les cadres du PCV sont devenus des multi-millionnaires en USD ;
- Déchéance sociale, décadence culturelle ... 
. Le ViêtNam est encore parmi les plus pauvres du monde, toujours mendiant l'assistance internationale ...


Image




Crimes Committed By Ho Chi Minh & The Vietnamese Communist Party 
1949-1956 : Five waves of agrarian reforms : 500000 victims ;
1954 : Almost 1 million people left Everything for Freedom in the South VietNam ;
1958 : Obeying Ho Chi Minh's decision, Pham Van Dong sent a letter officially approving the claims China made to the sea area in the East, including the islands Paracel and Spratley ;
1968 : Tet Offensive, more than 14000 civilians killed, and more than 2000 among them buried alive.
1974 : Acting in collusion with the Government of Hanoi, China invades
the archipelago Paracel belonging to the Republic of Viet Nam.
1975 : - Invasion of South Viet Nam two years after signing the Peace Treaty of Paris ; - Concentration Camps, half a million prisoners, thousands and thousands died ;
1975-1985 : More than 1,7 million Vietnamese escaped out of their country (about 3 to 4 hundred thousand died in the sea, maybe more)
1979 : War between 2 communist regimes (VN and China), thousands and thousands lost their lives ;
1999-2000 : Treaties, signed secretly, yielding national territories to China (the frontier regions in the North, the quasi totality of the sea in the East including the archipelagos Paracel and Spratley. By then, not a treaty revealed, not a map published ... 
To sum up, since 1945, "the war of liberation" carried out by Ho Chi Minh and the Communist Party has created 3 M (*) victims cut off from the whole population (Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 ; 
(*) Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes fils ? (Viet Nam, What Have You Done to Your Sons ?) 
Leading to the actual situation : 
- Loss of quasi totality of the sea region in the East and one part of the frontier region ;
- The majority of the people live in poverty despite 35 years of absolute peace ;
- Vietnamese fishermen are openly maltreated, avowedly terrorized, and even killed by Chinese forces in the traditional fishing regions, Viet Nam kept quiet, showing no reaction ;
- Brutal repression to the political dissidents and religious believers, not belonging to the state's organisations ;
- In its 2009 classification in regard to liberty of expression, RWF ranked VN 166 among 175 nations in the world.
- Children trade, women trade for sexual slavery.
- Trade 'labourer cheap price' (in reality selling slaves) all over the world.
- "Leasing" entire strategical zones of the fatherland to China (our perennial enemies ), which is exploiting bauxite (very pollutant), with its own workers from the mainland, freely ...
- The cadres in the Communist Party become multi-millionaires in USD ;
- VN is still among the poorest countries in the world, always begging for international aid ...



Công Bố Cáo Trạng 6 Tội Phản Bội Tổ Quốc Của Đảng CSVN
by LS Nguyễn Hữu Thống, C/N 2011/02/17 - chuyển by THUCSVN1



Uỷ Ban Luật Gia Việt Nam Bảo Vệ Dân Quyền Công Bố Cáo Trạng Kết Án Đảng Cộng Sản Việt Nam về 6 Tội Phản Bội Tổ Quốc
Trước Toà Án Quốc Dân và Toà Án Lịch Sử, các Luật Gia Việt Nam công bố Cáo Trạng kết án Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) về 6 tội phản bội tổ quốc theo trình tự như sau :

I. Năm 2009, ĐCSVN Từ Bỏ 60 % Khu Vực Thềm Lục Địa Mở Rông Tại Vùng Biển Hoàng Sa & Trường Sa
Về mặt pháp lý, Chiếu Điều 76 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, tại Biển Đông Nam Á hay Biển Đông, các quốc gia duyên hải được hưởng quy chế thềm lục địa pháp lý 200 hải lý chạy từ biển lãnh thổ ra khơi. Như vậy tối thiểu thềm lục địa của quốc gia duyên hải kéo dài từ đường cơ sở ven bờ (baselines) tới vùng hải phận 212 hải lý (trong đó có biển lãnh thổ 12 hải lý territorial sea).

Chiếu Điều 77 Luật Biển, Thềm Lục Địa thuộc chủ quyền tuyệt đối của quốc gia duyên hải. Mọi sự xâm chiếm của ngoại bang, dầu có võ trang hay không, đều vô giá trị và vô hiệu lực. Do đó dầu Trung Hoa đã chiếm đóng 13 đảo Hoàng Sa, và một số các đảo, cồn, đá, bãi tại Trường Sa, nhưng Việt Nam vẫn không mất chủ quyền lãnh thổ tại các quần đảo này.

Ngoài thềm lục địa pháp lý 200 hải lý các quốc gia duyên hải còn được hưởng quy chế thềm lục địa mở rộng (từ 200 đến 350 hải lý) nếu về mặt địa chất và địa hình, đáy biển là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa từ đất liền ra ngoài biển. Đó là trường hợp của Việt Nam tại Biển Đông. Bản Phúc Trình của Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempt năm 1925 và bản Phúc Trình năm 1995 của các Luật Sư Covington và Burling cùng xác nhận điều đó.

Theo Hoạ Đồ Mercator lập hồi tháng 12/1995 thềm lục địa mở rộng của Việt Nam từ Bắc chí Nam trải dài trên 11 vĩ tuyến từ Quảng Trị (vĩ tuyến 17) xuống Nam Cà Mau (vĩ tuyến 7), hai điểm cực Nam có toạ độ 06°48 Bắc và 05°18 Bắc.

Ngày 07/05/2009 Nhà Cầm Quyền Hà Nội đệ nạp Uỷ Ban Định Ranh Thềm Lục Địa Liên Hiệp Quốc bản Phúc Trình kèm theo hoạ đồ và toạ độ ấn định giới tuyến Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng (TLĐMR) của Việt Nam (Extended Continental Shelf). Trong Phúc Trình này, bỗng dưng vô cớ, ĐCSVN tự ý thu hẹp thềm lục địa mở rộng chỉ còn 4 vĩ tuyến (từ Quảng Ngãi tại Vĩ Tuyến 15 xuống Bình Thuận tại Vĩ Tuyến 11). Và như vậy ĐCSVN đã từ bỏ 7 vĩ tuyến thềm lục địa mở rộng cả về phía Bắc và phía Nam : 

:arrow: 1. Về phía Bắc, ĐCSVN đã từ bỏ 3 vĩ tuyến TLĐMR (tại các vĩ tuyến từ 17, 16, 15, từ Quảng Trị xuống Quảng Ngãi). Đây là vùng biển toạ lạc 13 đảo Hoàng Sa : Đảo Trí Tôn tại vĩ độ 15°50, Đảo Hoàng Sa tại vĩ độ16°30, Đảo Phú Lâm tại vĩ độ 16°50, các Đảo Bắc và Đảo Cây tại vĩ độ 16°60. Kết quả là toàn thể quần đảo Hoàng Sa không còn nằm trên TLĐMR của Việt Nam về phía Bắc Quảng Ngãi. (Điểm 1 Hoạ Đồ có toạ độ 15°02 Bắc và 115 Đông).

Sự kiện này đi trái với Bản Phúc Trình năm 1925 của Tiến Sĩ Khoa Học Armand Krempt Giám Đốc Viện Hải Học Đông Dương.
Theo Phúc Trình Krempt quần đảo Hoàng Sa nằm trên Thềm Lục Địa Địa Chất hay Thềm Lục Địa Mở Rộng của Việt Nam. Vì quần đảo Hoàng Sa là một cao nguyên chìm dưới đáy biển Việt Nam. Về mặt địa chất, với đất đai, sinh thực vật, khí hậu ... & ... các đảo Hoàng Sa thuộc cùng một loại địa chất như lục địa Việt Nam. Sau 2 năm nghiên cứu, đo đạc, vẽ các bản đồ về hải đảo và đáy biển, Tiến Sĩ Krempt lập phúc trình xác nhận rằng : "Về mặt địa chất, những đảo Hoàng Sa thuộc thành phần lãnh thổ của Việt Nam". (Geologiquement les Paracels font partie du Vietnam).
Hơn nữa, về mặt địa hình, đáy biển Hoàng Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo dài ra ngoài biển. Nếu nước biển rút xuống khoảng 900 m thì Quần Đảo Hoàng Sa sẽ biến thành môt hành lang chạy thoai thoải từ dãy Trường Sơn qua Cù Lao Ré đến các đảo Trí Tôn, Hoàng Sa, Phú Lâm, Đảo Bắc và Đảo Cây.. 

:arrow: 2. Về phía Nam Chính Phủ Việt Nam cũng chỉ vẽ Thềm Lục Địa Mở Rộng từ Quảng Ngãi xuống Bình Thuận (Điểm 45 Hoạ Đồ có toạ độ 10°79 Bắc và 112 Đông). Và như vậy Việt Nam đã mất 4 vĩ tuyến Thềm Lục Địa Mở Rộng từ vĩ tuyến 11 xuống vĩ tuyến 7 (từ Bình Thuận xuống Nam Cà Mau). 

Hậu quả là tất cả các đảo lớn, các cồn và Bãi Tứ Chính tại vùng Biển Trường Sa, vì toạ lạc về phía Nam vĩ tuyến 11, nên không còn nằm trên TLĐMR của Việt Nam : Như các đảo Trường Sa, Sinh Tồn, Nam Yết, Bình Nguyên (Flat Island), Thái Bình (Itu Aba), Loại Tá, Vĩnh Viễn (Nansha), Bến Lộc (West York), Thị Tứ, (cùng với Bãi Tứ Chính, và các cồn An Bang, Sơn Ca, và Song Tử Tây do Việt Nam chiếm cứ).

Như vậy theo Phúc Trình của Nhà Cầm Quyền Hà Nội, toàn thể các đảo, cồn, đá, bãi tại quần đảo Trường Sa đều toạ lạc ngoài khu vực Thềm Lục Địa Mở Rộng của Việt Nam, từ Điểm 1 tại Quảng Ngãi đến Điểm 45 tại Bình Thuận.

Sự kiện này đi trái với Bản Phúc Trình năm 1995 của các Luật Sư Covington và Burling theo đó Việt Nam có quyền được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Mở Rộng (từ 200 đến 350 hải lý) tại vùng biển Trường Sa. Vì đáy biển Trường Sa là sự "tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền kéo rất xa ra ngoài biển khơi". (Vietnam is entitled to claim (more than 200 nautical miles) because the natural prolongation of the Vietnamese mainland extends considerably farther seaward than 200 nautical miles).

Trong mọi trường hợp, với Phúc Trình năm 2009, ĐCSVN đã phản bội tổ quốc bằng cách vô cớ và vô lý từ bỏ 7 vĩ tuyến (3 vĩ tuyến về phía Bắc và 4 vĩ tuyến về phía Nam). Đây là những vùng hải phận và thềm lục địa mở rộng của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

II. Tội Chuyển Nhượng Các Quần Đảo Hoàng Sa Trường Sa Cho TC 
Hơn 50 năm trước, năm 1958, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh là Chủ Tịch Đảng và Chủ Tịch Nước, Phạm Văn Đồng gửi văn thư cho Chu Ân Lai để dâng cho Trung 

Cộng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mặc dầu các quần đảo này thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà chiếu Điều 4 Hiệp Định Geneva ngày 20/07/1954 :
:arrow: 1) Ngày 15/06/1956, Ung Văn Khiêm (ngoại trưởng) minh thị tuyên bố : "Hà Nội nhìn nhận chủ quyền của TC tại Hoàng Sa và Trường Sa mà TC gọi là Tây Sa và Nam Sa".

:arrow: 2) Ngày 14/09/1958 qua lời Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, đã hiến dâng cho Trung Cộng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

:arrow: 3) Để biện minh cho lập trường bán nước Biển Đông của Hồ Chí Minh, sau khi Trung Cộng xâm chiếm Trường Sa hồi tháng 03/1988, báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của Đảng Cộng Sản trong số ra ngày 26/04/1988 đã viết : "Trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược thì Việt Nam phải tranh thủ sự gắn bó của TC, và ngăn chặn Hoa Kỳ sử dụng 2 quần đảo nói trên".

:arrow: 4) Và hồi tháng 05/1976, báo Saigon Giải Phóng trong bài bình luận việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa bằng võ lực hồi tháng giêng 1974, đã viết : "TC vĩ đại đối với chúng ta không chỉ là người đồng chí, mà còn là người thầy tin cẩn đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam hay thuộc TC cũng vậy thôi".

Từ 1956, mục tiêu chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam là "giải phóng Miền Nam" bằng võ lực. Để chống lại Việt Nam Cộng Hoà, Hoa Kỳ và Đồng Minh, Hà Nội hoàn toàn trông cậy vào sự cưu mang nhiệt tình của người thầy phương Bắc. Vì sau cái chết của Stalin năm 1953, Liên Xô chủ trương chung sống hoà bình với Tây Phương, trong khi Mao Trạch Đông vẫn mạnh miệng tuyên bố "sẽ giải phóng một ngàn triệu con người Á Châu khỏi ách Đế Quốc Tư Bản".
Mà muốn được cưu mang phải cam kết đền ơn trả nghĩa. Ngày 14/09/1958, qua Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch Nước cam kết chuyển nhượng cho TC các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Có 3 lý do được viện dẫn :
a) Vì Hoàng Sa, Trường Sa toạ lạc tại các vĩ tuyến 17-7 (Quảng Trị - Cà Mâu) nên thuộc hải phận Việt Nam Cộng Hoà. Đối với Hà Nội nhượng Hoàng Sa, Trường Sa cho TC trong thời điểm này chỉ là bán da gấu ! (không phải tài sản của mình).
b) Sau này do những tình cờ lịch sử, nếu Bắc Việt thôn tính được Miền Nam thì mấy quần đảo tại Biển Đông đâu có ăn nhằm gì so với toàn thể lãnh thổ Việt Nam ?
c) Giả sử cuộc "giải phóng Miền Nam" không thành, thì việc Trung
Cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam Cộng Hoà sẽ có tác dụng làm suy yếu phe Quốc Gia về kinh tế, chính trị, chiến lược và an ninh quốc phòng. 

III. Tội Nhượng Đất Biên Giới Cho TC 
Năm 1949, sau khi thôn tính lục địa Trung Hoa, mục tiêu chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản là nhuộm đỏ hai bán đảo Đông Dương và Triều Tiên. 
Qua năm sau, 1950, với sự yểm trợ của các chiến xa Liên Xô và đại pháo Trung Cộng, Bắc Hàn kéo quân xâm lăng Nam Hàn. Tuy nhiên âm mưu thôn tính không thành do sự phản kích của quân lực Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc. 

Từ 1951 cuộc chiến bất phân thắng bại đưa đến hoà đàm (vừa đánh vừa đàm). Hai năm sau Chiến Tranh Triều Tiên kết thúc bởi Hiệp Định Đình Chiến Bàn Môn Điếm tháng 07/1953. Thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, Trung Cộng tập trung hoả lực và kéo các đại pháo từ mặt trận Bắc Hàn xuống mặt trận Bắc Việt. 
Để tiếp tế võ khí, quân trang, quân dụng, cung cấp cố vấn và cán bộ huấn luyện cho Bắc Việt, các xe vận tải và xe lửa Trung Cộng đã chạy sâu vào nội địa Việt Nam để lập các căn cứ chỉ huy, trung tâm huấn luyện, tiếp viện và chôn giấu võ khí. Thừa dịp này một số dân công và sắc dân thiểu số Trung Cộng kéo sang Việt Nam định cư lập bản bất hợp pháp để lấn chiếm đất đai. 

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai khởi sự từ 1956, với các chiến dịch Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Tết Mậu Thân (1968) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972), Bắc Việt huy động toàn bộ các sư đoàn chính quy vào chiến trường Miền Nam. Thời gian này để bảo vệ an ninh quốc ngoại chống sự phản kích của quân lực Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ (như trong Chiến Tranh Triều Tiên), Bắc Việt nhờ 300 ngàn binh sĩ Trung Cộng mặc quân phục Việt Nam đến trú đóng tại 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Trong dịp này các binh sĩ, dân công và sắc dân thiểu số Trung Hoa đã di chuyển những cột ranh mốc về phía nam dọc theo lằn biên giới để lấn chiếm đất đai.

Trong Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba khởi sự từ 1979, để giành giật ngôi vị bá quyền, Trung Cộng đem quân tàn phá 6 tỉnh biên giới Bắc Việt. Và khi rút lui đã gài mìn tại nhiều khu vực rộng tới vài chục cây số vuông để lấn chiếm đất đai.
Ngày nay, do đề nghị của Bắc Kinh, Hà Nội xin hợp thức hoá tình trạng đã rồi, nói là thể theo lời yêu cầu của các sắc dân thiểu số Trung Hoa đã định cư lập bản tại Việt Nam.

Năm 1999 họ ký Hiệp Ước Biên Giới Việt Trung để nhượng cho Trung Cộng hơn 800 km2 đất biên giới, trong đó có các quặng mỏ và các địa danh như Ải Nam Quan, Suối Phi Khanh tại Lạng Sơn và Thác Bản Giốc tại Cao Bằng ... 

IV. Tội Bán Nước Biển Đông Cho TC 
Kinh nghiệm cho biết các quốc gia láng giềng chỉ ký hiệp ước phân định lãnh thổ hay lãnh hải sau khi có chiến tranh võ trang, xung đột biên giới hay tranh chấp hải phận. 

Trong cuốn "Biên Thuỳ Việt Nam"(Les Frontières du Vietnam), sử gia Pierre Bernard Lafont có viết bài "Biên Thuỳ Lãnh Hải của Việt Nam" (La Frontière Maritime du Vietnam). Theo tác giả, năm 1887, Việt Nam và Trung Hoa đã ký Hiệp Ước Bắc Kinh để phân ranh hải phận Vịnh Bắc Việt theo đường kinh tuyến 108 Greenwich Đông (105 Paris), chạy từ Trà Cổ Móng Cáy xuống vùng Cửa Vịnh (Quảng Bình, Quảng Trị). Đó là đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa tại Vịnh Bắc Việt. Vì đã có sự phân ranh Vịnh Bắc Việt theo Hiệp Ước Bắc Kinh 1887, nên "từ đó hai bên không cần ký kết một hiệp ước nào khác". Do những yếu tố địa lý đặc thù về mật độ dân số, số hải đảo, và chiều dài bờ biển, Việt Nam được 63 % và Trung Hoa được 37 % hải phận.

Năm 2000, mặc dầu không có chiến tranh võ trang, không có xung đột hải phận, bỗng dưng vô cớ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lén lút ký Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ để huỷ bãi Hiệp Ước Bắc Kinh 1887.

Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ là một hiệp ước bất công, vi phạm pháp lý và vi phạm đạo lý.
Bất công và vi phạm pháp lý vì nó không tuân theo những tiêu chuẩn của Toà Án Quốc Tế, theo đó sự phân ranh hải phận phải căn cứ vào các yếu tố địa lý, như số các hải đảo, mật độ dân số và chiều dài bờ biển. Ngày nay dân số Bắc Việt đông gấp 6 lần dân số đảo Hải Nam, và bờ biển Bắc Việt dài gấp 3 lần bờ đảo Hải Nam phía đối diện Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam có hàng ngàn hòn đảo trong khi Hải Nam chỉ có 5 hay 6 hòn. Tại miền bờ biển hễ có đất thì có nước ; có nhiều đất hơn thì được nhiều nước hơn ; có nhiều dân hơn thì cần nhiều nước hơn. Vì vậy hải phận Việt Nam phải lớn hơn hải phận Trung Hoa (63 % và 37 % theo Hiệp Ước Bắc Kinh). Và cũng vì vậy vùng biển này có tên là Vịnh Bắc Việt (Không phải Vịnh Quảng Đông). 

Ngày nay phe Cộng Sản viện dẫn đường trung tuyến để phân ranh hải phận với tỷ lệ lý thuyết 53 % cho Việt Nam. Như vậy Việt Nam đã mất ít nhất 10 % hải phận, khoảng 12000 km2. Tuy nhiên trên thực tế phe Cộng Sản đã không áp dụng nghiêm chỉnh đường trung tuyến. Họ đưa ra 21 điểm tiêu chuẩn phân ranh Vịnh Bắc Việt theo đó Việt Nam chỉ còn 45 % hải phận so với 55 % của TC. Và Việt Nam đã mất 21000 km2 Biển Đông. 

Bất công hơn nữa vì nó không căn cứ vào những điều kiện đặc thù để phân ranh Vịnh Bắc Việt. Tại vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hoá), biển rộng 170 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 85 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí (thay vì 200 hải lý theo Công Ước về Luật Biển). Trong khi đó, ngoài 85 hải lý về phía tây, đảo Hải Nam còn được thêm 200 hải lý về phía đông thông sang Thái Bình Dương tổng cộng là 285 hải lý. Theo án lệ của Toà Án Quốc Tế, hải đảo không thể đồng hoá hay được coi trọng như lục địa. Vậy mà với số dân chừng 7 triệu người, đảo Hải Nam, một tỉnh nhỏ nhất của TC, đã được hưởng 285 hải lý để đánh cá và khai thác dầu khí, trong khi 45 triệu dân Bắc Việt chỉ được 85 hải lý. Đây rõ rệt là bất công quá đáng. Bị án ngữ bởi một hải đảo (Hải Nam) người dân Bắc Việt bỗng dưng mất đi 115 hải lý vùng đặc quyền kinh tế để đánh cá và thềm lục địa để khai thác dầu khí (chỉ còn 85 hải lý thay vì tối thiểu 200 hải lý). 

Hơn nữa, Hiệp Ước này còn vi phạm đạo lý vì nó đi trái với những mục tiêu và tôn chỉ của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền như Công Lý, Bình Đẳng, Hữu Nghị, không cưỡng ép, không thôn tính và không lấn chiếm. 

V. Tội Dâng Các Tài Nguyên & Nguồn Lợi Thiên Nhiên Cho TC 
Cùng ngày với Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt năm 2000, Đảng Cộng Sản Việt Nam còn ký Hiệp Ước Hợp Tác Nghề Cá và thiết lập Vùng Đánh Cá Chung với Trung Cộng.
Năm 2004, Quốc Hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp Ước Vịnh Bắc Việt. Tuy nhiên, trái với Điều 84 Hiến Pháp, Hiệp Ước Đánh Cá không được Quồc Hội phê chuẩn, chỉ được Chính Phủ "phê duyệt". 

Theo Hiệp Ước sau này, hai bên sẽ thiết lập một vùng đánh cá chung rộng 60 hải lý, mỗi bên 30 hải lý, từ đường trung tuyến biển sâu nhiều cá, khởi sự từ vĩ tuyến 20 (Ninh Bình, Thanh Hoá) đến vùng Cửa Vịnh tại vĩ tuyến 17 (Quảng Bình, Quảng Trị). 

Tại Quảng Bình biển rộng 120 hải lý, theo đường trung tuyến Việt Nam được 60 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân chỉ còn 30 hải lý gần bờ ít cá. Trong khi đó Hải Nam được 290 hải lý để toàn quyền đánh cá. 
Tại Ninh Bình, Thanh Hoá, biển rộng 170 hải lý, theo đường trung tuyến, Việt Nam được 85 hải lý. Trừ 30 hải lý cho vùng đánh cá chung, ngư dân Việt Nam chỉ còn 55 hải lý gần bờ. Trong khi đó Hải Nam được 315 hải lý. 

Hơn nữa, theo nguyên tắc hùn hiệp, căn cứ vào số vốn, số tầu, số chuyên viên kỹ thuật gia và ngư dân chuyên nghiệp, Trung Cộng sẽ là chủ nhân ông được toàn quyền đánh cá ở cả hai vùng, vùng đánh cá chung và vùng hải phận Trung Hoa. 

Ngày nay trên mặt đại dương, trong số 10 tầu đánh cá xuyên dương trọng tải trên 100 tấn, ít nhất có 4 tầu mang hiệu kỳ TC. Các tầu đánh cá lớn này có trang bị các lưới cá dài với tầm hoạt động 60 dặm hay 50 hải lý. Do đó đoàn ngư thuyền TC không cần ra khỏi khu vực đánh cá chung cũng vẫn có thể chăng lưới về phía tây sát bờ biển Việt Nam để đánh bắt hết tôm cá, hải sản, từ Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh tới Quảng Bình, Quảng Trị. Chăng lưới đánh cá tại khu vực Việt Nam là vi phạm hiệp ước. Tuy nhiên các đội tuần cảnh duyên hải Việt Nam sẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Là cơ quan kinh tài của Đảng, họ sẽ triệt để thi hành chính sách thực dụng làm giàu với bất cứ giá nào như cấu kết chia phần với ngoại bang mặc dầu mọi vi phạm luật pháp và vi phạm hiệp ước. 
Trong cuộc hùn hiệp hợp tác này không có bình đẳng và đồng đẳng. Việt Nam chỉ là kẻ đánh ké, môi giới mại bản, giúp Trung Cộng mặc sức vơ vét tôm cá hải sản Biển Đông, để xin hoa hồng (giỏi lắm là 5 %, vì Trung Cộng có 100 % tầu, 100 % lưới và 95 % công nhân viên). 

Rồi đây Trung Cộng sẽ công nhiên vi phạm Hiệp Ước Hợp Tác Đánh Cá cũng như họ đã thường xuyên vi phạm Công Ước về Luật Biển trong chính sách "tận thâu, vét sạch và cạn tầu ráo máng" và chính sách thực dụng mèo đen mèo trắng của Đặng Tiểu Bình, làm giàu là vinh quang, làm giàu với bất cứ giá nào. Ngày nay tại vùng duyên hải Trung Hoa, các tài nguyên, hải sản và nguồn lợi thiên nhiên như tôm cá, dầu khí đã cạn kiệt. Do nhu cầu kỹ nghệ và nạn nhân mãn (của 1 tỷ 380 triệu người) TC đòi mở rộng khu vực đánh cá và khai thác dầu khí xuống Trung và Nam Việt trong vùng hải phận và Thềm Lục Địa riêng của Việt Nam. Đó là những tai hoạ xâm lăng nhỡn tiền.

VI. Tội Đồng Loã Cố Sát Có Dự Mưu 
Do những hành vi và hiệp định nói trên ĐCSVN đã tạo thời cơ và giúp phương tiện cho bọn côn đồ Trung Cộng (giả danh hải tặc) để bắn giết các ngư dân Việt Nam bằng súng đạn. Đồng thời ủi các tàu hải quân đâm vào các tàu đánh cá Việt Nam khiến cho tàu bị đắm và người mất tích trong lòng đại dương. Trong những vụ giết người này bọn côn đồ Trung Cộng là những kẻ chánh phạm sát hại ngư dân. Và ĐCSVN là những kẻ đồng loã cố sát có dự mưu bằng cách giúp phương tiện và tạo cơ hội cho kẻ chánh phạm tàn sát các ngư dân và đánh chìm các tàu đánh cá Việt Nam.

Những hành động tàn ác và phản bội nói trên cấu thành 6 tội Phản Quốc bằng cách "cấu kết với nước ngoài xâm phạm chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Đồng thời xâm phạm quyền của người dân được hưởng dụng đầy đủ những tài nguyên và nguồn lợi thiên nhiên của đất nước". 
Theo chính sử Việt Nam, vào giữa thế kỷ 16, Mạc Đăng Dung dâng 5 động và 1 châu cho Nhà Minh. Do hành động nhượng đất này, từ hơn 4 thế kỷ nay, Mạc Đăng Dung bị Quốc Dân kết án về tội Phản Quốc, tên tuổi đê mạt của y bị di xú vạn niên. 

Ngày nay phe lãnh đạo ĐCSVN, khởi sự từ Hồ Chí Minh, đã phạm 6 tội phản quốc với những hậu quả tai hại gấp trăm, gấp ngàn lần thời Mạc Đặng Dung.
Để hoá giải nạn nội xâm và thoát khỏi sự thống trị của Đế Quốc Bắc Phương, chúng ta chỉ còn một giải pháp duy nhất là kiên trì đấu tranh giải thể chế độ cộng sản để thiết lập chế độ dân chủ.

Cũng theo lịch sử Việt Nam, trong thế kỷ thứ 10, nhân dân ta đã kết hợp đấu tranh và đã 3 lần đánh thắng quân nhà Tống với các chiến công oanh liệt của Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản.

Và độc đáo hơn nữa, trong thế kỷ 13, dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, dân quân Đại Việt một lòng cũng đã 3 lần đánh thắng quân Nhà Nguyên. Đây là một trong những chiến công lừng lẫy nhất trong lich sử đấu tranh giải phóng dân tộc của loài người. Điều đáng lưu ý là thời đó dân tộc Việt Nam chỉ trông vào nội lực của chính mình mà không có sự yểm trợ của đồng minh.

Đó là hai bài học lịch sử của chúng ta hôm nay. Đó cũng là nguồn nuôi dưỡng Quyết Tâm và Niềm Tin của người Việt từ hơn một thiên niên kỷ.
Hôm nay Uỷ Ban Luật Gia công bố Cáo Trạng kết án phe lãnh đạo ĐCSVN. Đồng thời để yểm trợ cuộc đấu tranh Giải Thể Cộng Sản và Xây Dựng Dân Chủ do các vị lãnh đạo tinh thần khởi xướng với sự kết hợp của các luật gia và mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước.

Cầu Xin Anh Linh Các Bậc Tổ Phụ Lập Quốc
Yểm Trợ Cuộc Đấu Tranh Lịch Sử Này
LS Nguyễn Hữu Thống, Hải Ngoại 2011/02/01
Cố Vấn Sáng Lập Hội Luật Gia Việt Nam Tại California (1979)
Chủ Tịch Sáng Lập Uỷ Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền (1990)
Cố Vấn Sáng Lập Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam (1997)


Sep 25, 2012

• Đài Loan can dự vào căng thẳng Trung-Nhật

by KienHoa - 25/09/2012.




Tàu tuần duyên Nhật dùng súng phun nước để đẩy lui các tàu cá Đài Loan, 25/09/2012. REUTERS/Kyodo

Tình hình căng thẳng tại Senkaku/ Điếu Ngư đài đã thêm phần rắc rối. Hàng chục tàu cá và tàu tuần duyên Đài Loan kéo đến hải phận của Nhật Bản, ngoài khơi quần đảo mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Chiến thuật kích động tinh thần đại Hán của Bắc Kinh với mục tiêu định hướng công luận, che dấu khó khăn kinh tế và chính trị đã làm cho một bộ phận người Hoa mờ mắt. 

Vào hôm nay 25/09/2012, một đoàn 40 tàu đánh cá Đài Loan cùng với 8 tàu tuần dương dàn đội hình như một hạm đội tiến vào vùng biển Senkaku/ Điếu Ngư.
Lực lượng tuần duyên Nhật Bản, đang đối đầu với các tàu hải giám của Trung Quốc, lập tức dùng loa kêu gọi tàu Đài Loan tôn trọng lãnh hải Nhật Bản. Một sĩ quan trên tàu tuần duyên Đài Loan đáp trả qua làn sóng điện là họ « đang ở trong hải phận của Trung Hoa Dân Quốc, bảo vệ ngư dân, và sẵn sàng phản ứng nếu Nhật Bản dùng vũ lực ». Nhưng khi cảnh sát biển Nhật Bản sử dụng vòi rồng với áp suất cực mạnh phun nước ngăn chận thì đoàn tàu của Đài Loan đã rút lui.
Theo bộ chỉ huy lực lượng tuần duyên Nhật, thì đây là lần đầu tiên kể từ sau năm 1996, ngư dân Đài Loan tìm cách biểu dương lực lượng với quy mô lớn tại Senkaku.

Tuy nhiên, Tokyo đã liên lạc với chính quyền Đài Loan và nhấn mạnh đến mối quan hệ lâu bền với Đài Bắc để tìm một giải pháp thỏa đáng.
Theo quan điểm của Đài Bắc, Trung Hoa Dân Quốc cũng có « chính nghĩa » đòi chủ quyền tại đảo Điếu Ngư như Trung Hoa lục địa. Vấn đề là với sự kiện có thêm một tác nhân thứ ba can dự vào vùng biển đảo thuộc chủ quyền của Tokyo từ hàng trăm năm nay sẽ làm cho tình thế đang căng thẳng trở thành phức tạp hơn.
Tuy chưa bên nào đưa chiến hạm vào vùng, nhưng nguy cơ va chạm không phải nhỏ. Thứ Hai vừa qua, Trung Quốc đã tìm cách « nắn gân » đối phương qua hành động cho ba tàu hải giám vượt qua làn ranh 22 cây số ngoài khơi Senkaku/Điếu Ngư.

Căng thẳng về chủ quyền đột ngột gia tăng vào đầu tháng Chín khi chính phủ Nhật quốc hữu hóa ba đảo còn thuộc tài sản tư nhân trong quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư. Bắc Kinh vội vàng đưa hàng chục tàu quân sự cải trang thành tàu dân sự ra vùng biển tranh chấp. Cùng lúc là đợt biểu tình bạo động bài Nhật diễn ra trên nhiều thành phố lớn tại Hoa lục mà theo báo chí Nhật có bàn tay chỉ đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc.

Về phía Đài Loan, cách nay hai hôm, Tổng thống Đài Loan tuyên bố là Trung Hoa Dân Quốc không làm điều gì tổn hại cho quan hệ với hai đồng minh Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hôm nay, ông lại tuyên bố ủng hộ hành động của ngư dân. Hai tuyên bố trái ngược nhau của Tổng thống Mã Anh Cữu cũng phản ánh một tình thế tế nhị : Đài Bắc là đồng minh của Washington và Tokyo, trong khi Hoa Kỳ đã khẳng định, trong hiệp ước an ninh hỗ tương với Nhật Bản, sẽ bảo vệ quần đảo Senkaku, nếu khu vực này bị xâm lăng. 



Thái độ không nhất quán của lãnh đạo Đài Loan, do dân bầu lên, minh họa cho hệ quả chính sách kích động tinh thần đại Hán của Bắc Kinh.
Trong bối cảnh kinh tế trì trệ, nhân dân bất mãn, cán bộ tham ô, thượng tầng xung khắc như bọn trùm xã hội đen, đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị thay đổi thế hệ lãnh đạo vào mùa thu này. Nhiều nhà phân tích cho rằng, Trung Quốc kích động ngọn lửa yêu nước để « định hướng công luận » hay nói thẳng ra là đánh lừa nhân dân của họ. Người dân Hông Kông đã ý thức được thủ đoạn của Bắc Kinh nên bằng mọi giá, kể cả đấu tranh tuyệt thực, họ đã buộc chính quyền Lương Chấn Anh hủy bỏ chương trình giáo dục yêu nước, mà thực chất là yêu Chủ nghĩa Xã hội theo quan điểm của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Vấn đề là không ít người Hoa dù ở lục địa, ở Đài Loan hay một nơi nào khác, còn chưa thấy âm mưu của Bắc Kinh.

Tình hình căng thẳng tại Biển Hoa Đông sẽ dẫn đến nổ súng hay không tùy thuộc vào Trung Quốc. Nhưng có lẽ lo sợ hiệu ứng « gậy ông đập lưng ông », Bắc Kinh đã ngầm chỉ thị ngưng biểu tình. Mặc khác, tuy vẫn tỏ thái độ « thiên triều », đơn phương hủy bỏ lễ tân ghi dấu 40 năm bình thường hóa bang giao với Nhật, ban lãnh đạo Trung Quốc có lẽ đã lắng nghe lời cảnh báo của Thủ tướng Nhật : Cuộc tranh chấp chủ quyền sẽ gây tổn hại cho hai bên và cho cả thế giới./Tú Anh (RFI)







Tàu đánh cá của Đài Loan khởi hành từ cảng Tô Áo, ở đông bắc Đài Loan hướng về dãy đảo đang tranh chấp

Các tàu tuần duyên của Nhật Bản và Đài Loan hôm nay đã bắn vòi rồng vào nhau ở Biển Đông Trung Hoa, gây phức tạp thêm cho vụ tranh chấp lãnh thổ dữ dội vốn đã làm rối loạn các mối quan hệ giữa Trung Quốc với Nhật Bản.

Vụ đối đầu khá căng thẳng, được chiếu trên đài truyền hình Nhật Bản, đã diễn ra trong lúc ít nhất 8 chiếc tàu tuần duyên của Đài Loan hộ tống mấy mươi chiếc tàu đánh cá gần những hòn đảo mà cả Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đều tuyên bố có chủ quyền.

Các giới chức Nhật Bản cho biết các chiếc tàu Đài Loan đã rời khỏi vùng biển có tranh chấp khoảng 1 giờ đồng hồ sau đó. Chánh văn phòng Nội các Nhật Osamu Fujimura nói rằng Tokyo đã chính thức phản đối vụ xâm nhập của Đài Loan.

Ông Fujimura nói: "Chúng tôi lại một lần nữa nộp kháng nghị thư cho phía Đài Loan. Còn về vấn đề an ninh xung quanh quần đảo Senkaku, chúng tôi sẽ tiếp tục canh phòng toàn diện và chỉ thị cho tất cả các bộ liên hệ thu thập thông tin để đối phó với bất kỳ tình huống nào có thể xảy ra."

Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu đã đưa ra một thông cáo để bày tỏ sự ủng hộ cho điều mà ông gọi là “hành động yêu nước” của các ngư phủ và lực lượng tuần duyên. Đây là lần đầu tiên Đài Loan phái tàu tới vùng biển có tranh chấp kể từ khi Nhật Bản mua những hòn đảo từ tay sở hữu chủ là một gia đình người Nhật, gây phẫn nộ cho cả Trung Quốc lẫn Đài Loan.

Các giới chức Trung Quốc và Nhật Bản hôm nay đã họp với nhau để tìm cách làm dịu bớt tình hình căng thẳng. Theo yêu cầu của Tokyo, Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Chokao Kawai đã họp với Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân tại Bắc Kinh. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho biết ông Trương Chí Quân đã thúc giục Nhật Bản “thực hiện những biện pháp cụ thể” để “sửa chữa những sai lầm” liên quan tới quần đảo này.

Quan hệ Trung-Nhật đã bị suy sụp sau khi Nhật Bản quốc hữu hóa các hòn đảo trong một hành động mà nhiều người xem là có mục đích giúp cho những hòn dảo đó khỏi bị khai thác bởi vị đô trưởng Tokyo có chủ trương dân tộc cực đoan. Từ đó tới nay, Trung Quốc đã phái nhiều tàu tuần duyên, tàu hải giám và tàu đánh cá đến nơi để tìm cách khẳng định tuyên bố chủ quyền đối với những hòn đảo nằm gần những nơi có nhiều cá và có thể có nhiều dầu lửa và khí đốt.

Những đảo này Nhật Bản gọi là Senkaku, trong khi Trung Quốc gọi là Điếu Ngư và Đài Loan gọi là Điếu Ngư Đài.

Ông Michael Cucek, một nhà nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế của Đại học MIT ở Tokyo, cho đài VOA biết rằng những diễn tiến ngày hôm nay làm cho vụ tranh chấp chủ quyền biển đảo trở nên nguy hiểm và khó tiên liệu hơn.

Ông Cucek cho biết: "Rất khó để biết được Trung Quốc sẽ làm sao để lùi bước sau khi đã đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ như vậy và làm cách nào để cho những vụ xâm nhập, thoạt đầu là của các chiếc tàu từ Hồng Kông và giờ đây là của các chiếc tàu từ Đài Loan, tiến vào vùng lãnh hải xung quanh quần đảo Senkaku không làm cho Trung Quốc viện cớ bảo vệ người dân Trung Quốc để gia tăng cường độ của những lời lẽ đả kích Nhật Bản và nâng cao mức độ của vụ đối đầu."

Trong những ngày gần đây, những vụ biểu tình chống Nhật đôi khi có bạo động đã diễn ra trên khắp Trung Quốc, và bao gồm những vụ tấn công nhắm vào các doanh nghiệp cho Nhật Bản làm chủ và những lời hô hào đòi tẩy chay hàng hóa của Nhật. Vụ tranh chấp này đe dọa tới mối quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản, hai nền kinh tế lớn nhất Á châu.


:arrow: Tranh chấp Trung Nhật ở Hoa Đông: Rất có nguy cơ gây ra các sự cố hàng hải
:arrow: Trung Quốc công bố sách trắng về Senkaku/Điếu Ngư


Sep 23, 2012

• 1. PHẢI GIỮ CĂN CƯỚC TỊ NẠN CỘNG SẢN





• NHỮNG TẤM LÒNG ÁI QUỐC


NHỮNG TẤM LÒNG ÁI QUỐC
by Vĩnh Nhất Tâm 25.07.2012 - chuyển by THUCSVN1

NHỮNG TẤM LÒNG ÁI QUỐC

Từng khuôn mặt, tình non sông son sắt!
Khắc trên bia vì nòi giống: tri hành.
Trước kẻ thù phải dứt khoát đấu tranh,
Không đồng lõa, không cúi đầu khép nép.

Dân tộc Việt từ ngàn xưa sử chép
Chưa bao chấp nhận cảnh làm nô.
Vì lợi danh mà quên cả cơ đồ!
Lòng bất khuất còn nguyên từng pho sử.

Tình đất nước không bao giờ bỏ dở,
Khi non sông Tàu cộng vẫn thừa cơ.
Mà Việt gian Bắc-bộ-phủ làm ngơ,
Cho Hán cộng tìm mọi phương đồng hóa !

Hỡi bạn Trẻ ! Hãy nhìn kia đại họa !
Bọn giặc Tàu đang "lừa gió bẻ măng"
Do tập đoàn thái thú phản nhân dân,
Còn đâu biết đến gốc nguồn Lạc Việt.

Hãy cứu nước đang trong vòng ngã nghiệt
Đừng để Tàu hống hách với nghênh ngang
Chúng đã vào sát bờ biển Việt Nam
Lũ Việt cộng cứ trơ lì "hữu nghị"

Vĩnh Nhất Tâm 25.07.2012
-------------------------
TÌNH RIÊNG NỢ CHUNG



Này em, em biết gì không?
Nhớ thương đã nhuộm mênh mông cả trời
Quê hương mình vẫn xa vời
Nỗi đau biên giới, máu ngời Hoàng Sa!
Bốn ngàn năm lẻ Ông Cha
Phương Nam một cõi, sơn hà vững yên
Bây giờ vận nước đảo điên
Từ trong văn hóa trải liền hoang mang...

Này em, em thấy gì không?
"Sao vàng cờ đỏ" xâm lăng không nào!
Biểu tình (chống Tàu) em chọn cờ nào?
Để cho tâm thức không gào nỗi đau!
Em vì tình nước...công lao
Máu đào, xướng trắng... anh hào dựng nên.
Bắc-Trung-Nam cả ba miền
Non sông hùng vĩ, trời Nam vang lừng.

Ta cùng nghiệm nghĩa "nhục vinh"
Chung nền văn hiến, chung tình nước non.
Bà Trưng thể hiện lòng son
Chết vì Tổ Quốc cháu con theo Bà.
Non hai thiên kỷ giang hà
Trưng...Ngô, Lê, Lý, Trần Lê, Nguyễn-triều (*)
Bao phen đã đuổi giặc Tàu
Giữ nền độc lập một màu Việt Nam!!!!

Vĩnh Nhất Tâm 11.08.2011



Chú thích, Vĩnh Nhất Tâm dựa vào sử liệu mà tóm lược một cách khái quát về sự phi thường của Tiền-nhân, giữ nước để cùng chia sẻ với hết thảy quý bạn trẻ trong ngoài Facebook.

(*) (...) chỉ thời trước Hùng Vương và Hùng Vương. (...) chỉ Bà Triệu Trinh Vương, Lý Nam Đế,... đến dòng Họ Khúc. 

Tiếp bước từng thời đại chống Tàu xâm lăng giành độc lập là Ngô Quyền đã giành lại được nền độc lập một cách toàn diện sau trận thủy táng 100 ngàn quân Nam Hán (Tàu) trên dòng sông Lịch-sử Bạch Đằng Giang; các Triều đại sau giữ nước đã đánh đuổi xâm lăng từ phương Bắc (Tàu):

Nhà Tiền Lê mở đầu kỷ nguyên phá Tống; tiếp sau là nhà Hậu Lý chấm dứt giặc Tống xâm lăng; ba lần đánh đuổi xâm lăng Mông Cổ (nhà Nguyên) do nhà Trần chấm dứt xâm lăng của giặc Nguyên sau ba trận, đã lừng vang thế giới; đến thời đánh đuổi giặc Minh (đánh thắng nhà Hồ tức Lê Quý Ly). Giặc Minh đô hộ nước ta trên dưới 20 năm, do Bình Định Vương Lê Lợi và Mưu-thần Nguyễn Trãi đã hoàn thành cuộc Kháng Chiến giành lại nền độc lập và ra đời triều-đại Hậu Lê. 

Và sau cùng rất là một thiên tài quân sự ra đời tại đất phương Nam là Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ xóa bỏ sông Gianh (còn gọi là Linh Giang) tức là dẹp Trịnh Nguyễn Phân Tranh.

Lúc bấy giờ tại nước Tàu tức triều đại nhà Minh bị dòng Mãn Châu xâm lăng và đô hộ nước Tàu. Lúc bấy giờ nhà Thanh rất mạnh và vững vàng nắm phương Bắc trong tay của vua Càn Long (mang dòng giữa Hán Mãn) một vị vua tài ba. Và cũng vào lúc bấy giờ vua Càn Long thấy phương Nam một vị thiên tài về quân sự ra đời chỉ trong một thời gian ngắn trên dưới 10 năm đã thống nhất nước Nam, là một điều đáng lo sợ, trong khi Càn Long nói riêng và phương Bắc nói chung đang nhìn một cách chú ý nếu không muốn nói chờ cho hai con hổ tại rừng phương Nam đánh nhau, nếu không chết một con thì tiềm lực (vật chất và tinh thần) quốc gia tại phương Nam cũng bị suy giảm đến kiệt huệ, thì Càn Long sẽ ra tay biến nước Đại Việt thành một tỉnh của nước Tàu không sớm thì muộn ( chuyện này đã có từ thời Tần Thủy Hoàng vào khoảng năm 221-214 trước Tây Lịch). Chính vì thế khi vị hoàng đế cuối cùng của nhà Hậu Lê vừa nhu nhược vừa kém tài nên không xoay xở được nội tình của miền Bắc vào lúc bấy giờ, sau khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã giúp và xóa hẳn đi sự thao túng của chúa Trịnh, là để giữ vững mặt tuyến đầu của nước Đại Việt tức miền Bắc rất quan trọng nếu không muốn gọi là cái Nôi Văn Minh của phương Đông ngự tại đó và cũng là thành trì văn hóa của nước Nam từ khi mở nước.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã tiên liệu trước mọi vấn đề sẽ phải xãy đối với một tầm mắt lãnh đạo đất nước đã nhìn rất xa của một nhà lãnh đạo cả ba mặt: chính trị, kinh tế và quân sự đang bị đe dọa cả hai mặt:
1) Mặt thứ nhất là miền Bắc sẽ không tránh khỏi việc xâm lăng của nhà Thanh nếu có cơ hội.
2) Miền Nam chúa Nguyễn Ánh sẽ rước ngoại bang trong thời điểm đang trên đà thực dân phương Tây nói chung và Pháp nói riêng sẽ xâm lăng và đi chiếm làm thuộc địa.

Càn Long một vị vua không phải tầm thường rất khôn ngoan và cùng một viễn vọng về phương Nam không bỏ cuộc. Bấy giờ thì nhà vua (chỉ Lê Chiêu Thống) đã vì một ngôi vương sang cầu cứu nhà Thanh. Vậy chuyện gì đã xãy ra lịch sử cả Tàu lẫn Việt đã rõ ràng cuốc chiến đuổi xâm lăng Mãn Thanh dưới chiêu bài "Diệt Nguyễn phò Lê". 

Bắc Bình Vương nghe tin báo quân nhà Thanh đã vào Thăng Long do Lê Chiêu Thống cầu cứu. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ phải chính danh một vị Hoàng-đế nước Nam theo yêu cầu của các tướng sĩ thay mặt toàn dân, Ngài đã lập đàn giao tại Bàn Sơn, Hương Thủy tức tại cố đô Huế bây giờ để tế trời đất và lên ngôi Hoàng-đế tức là Quang Trung Nguyễn Huệ rì Ngài ra quân đuổi giặc xâm lăng trong vòng bảy ngày đã thần tốc đuổi non 20 ngàn quân Mãn Thanh và lấy lại đất nước và ăn Tết mừng chiến thắng tại Thăng Lòng thành cùng với toàn dân và toàn quân vào ngày Mồng 7 Tết năm Kỷ Dậu (1789). 

Theo sử viết là 7 ngày nhưng thực sự tình từ giờ cahm mặt với kẻ xâm lược và đến lúc vào Thăng Long thành thì tín h ra chỏ chưa tới 5 ngày. Tiếc thay! Đại-đế Quang Trung sớm thác nên tình thế nước Nam bước vào ngỏ cụt từ đó.

Sách đọc tham khảo:
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Việt Sử Toàn Thư và Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn-Sơn, Anh Hùng Dân Tộc Quang Trung Nguyễn Huệ của Cụ Hoa Bằng.